Chị Năm Nghĩa và hành trình 13 năm tìm hơn 5.000 hài cốt liệt sĩ - Kì 3

Mười mấy năm ăn rừng, ngủ núi, vượt thác trèo non đi tìm kiếm hơn 5.000 hài cốt liệt sĩ, bàn chân chị Năm Nghĩa (Vũ Thị Minh Nghĩa) đã đi khắp các cánh rừng thiêng nước độc ở Việt Nam.
Một góc rừng Tánh Linh
Từ những cánh rừng đại ngàn thuộc miền Đông Nam bộ như Tây Ninh, Trị An đến Chiến khu Đ, khu Tam giác sắt... Từ những dãy núi vòi vọi cao, hiểm trở như Núi Bể, núi Minh Đạo, Mây Tàu, Tóc Tiên, núi Dinh... đến những khu rừng nguyên sinh không một dấu chân người như rừng Tánh Linh, Mã Đà, Pù Răng Lập... Điều kỳ lạ là suốt ngần ấy năm trời, chị chưa một lần bị sốt rét, ốm đau hay cảm mạo, cũng chưa một lần bị rắn rết cắn hay thú dữ tấn công... Băn khoăn hỏi: “Chị có bí quyết gì không?”, chị tếu táo đùa: “Có chứ. Nhiều lắm. Sau này về già, có thời gian, chị sẽ viết một cuốn... binh pháp đi rừng, ở rừng để lưu cho hậu thế”. Nụ cười chưa kịp tắt, đôi mắt chị đã ầng ậng nước. Chị nghèn nghẹn: “Các liệt sĩ phù hộ cho chị đấy. Các chú, các anh xua đuổi rắn độc, thú dữ cho chị, dạy chị cách đi đứng, cách ăn ngủ ở rừng. Em bảo chị một thân một mình ở rừng, ốm đau thì chỉ có nước chết”. Những câu chuyện đường rừng của chị vô cùng ly kỳ, huyền hoặc mà kể ra đây, ít người có thể hình dung nổi.

Trăn quấn hai đầu võng, voi giày và thân cây bằng lăng khô
Hành trang đi rừng của chị bao giờ cũng gồm: tăng, võng, hai lá cờ (một lá cờ tổ quốc, một lá cờ giải phóng, chị thường cắm trên nóc lán trại, các liệt sĩ về, nhìn thấy, rất vui), vải đỏ (để gói hài cốt), thuốc men, cuốc xẻng (Sau này, năm 1998, chị tìm được hài cốt cho bố đồng chí Tuấn, cán bộ Sở Công an tỉnh Tây Ninh, tít tận biên giới Campuchia, được đồng chí tặng cái cuốc Mỹ, sản xuất từ năm 1952, cán bóng lộn lên, trông rất đơn giản nhưng vô cùng tiện dụng. Vừa làm xẻng, vừa làm thuổng, vừa làm cuốc. Một đầu ghè đá, một đầu làm cuốc. Mở ra là thuổng, gấp lại là xẻng, để trong ba lô, rất gọn. Chị nâng niu chiếc cuốc này như báu vật, phong cho nó là “thần cuốc”). Về lương thực, dù chuyến đi ngắn ngày dăm bữa nửa tháng hay dài ngày vài tháng trời, chị cũng chỉ gùi được 10kg gạo và 5kg mỳ tôm, thứ mỳ tôm rẻ tiền nhất (5.000đ/kg). Vì thế, chuyện ăn uống ở rừng bao giờ chị cũng phải tính toán chi ly, tằn tiện đến mức tối đa. Mỳ bao giờ cũng phải ăn trước để tránh mốc. Tiêu chuẩn mỗi ngày một gói. Trưa nửa gói, chiều nửa gói. Hết mỳ mới dùng đến gạo. Có điều, chị không dám nấu cơm bao giờ vì như thế rất tốn. Chị chỉ nấu cháo. Mỗi bữa chị đong miệng chén (cái chén uống trà mà hàng ngày mẹ chị vẫn dùng ở nhà). Sở dĩ chị phải tằn tiện như thế là vì sợ ở đó có nhiều liệt sĩ, ở lâu, không chia như thế, lấy gì mà ăn. Lo xa, ngày ngày chị vẫn ăn chen vào trái cây rừng: khi quả sung, quả gùi, khi quả mây, quả bình bát... Chuyến ngược rừng nào mà vớ được cây sung thì chị mừng rơn, lập tức hạ trại. Quả sung rừng (quả vả) to như nắm tay người lớn. Bữa ăn một quả, uống một bát nước thì no căng.
Các liệt sĩ rất vui khi nhìn thấy chị treo lá cờ giải phóng trong rừng
Trong suốt những năm tháng ăn rừng, ngủ núi, có những câu chuyện hãi hùng mà cho đến tận bây giờ, mỗi khi kể lại, chị Năm Nghĩa vẫn thấy lạnh sống lưng và thấy lòng rưng rưng vì sự bao dung huyền bí của đất mẹ đại ngàn và phép nhiệm màu mà các liệt sĩ đã độ trì cho chị. Đó là chuyến thượng sơn đầu tiên chị đến với Tánh Linh (Bình Thuận), cánh rừng rậm rạp, hoang vu, lạnh lẽo bậc nhất ở Việt Nam. Đường đi vô cùng gập ghềnh, hiểm trở. Tán rừng ken dày, tầng tầng lớp lớp. Lá mục ngập bàn chân. Vắt rừng nhiều đến độ như một nong tằm khổng lồ, vừa ngửi thấy hơi người là bật nhảy rào rào. Mệt đến đứt hơi mà chị không dám ngồi nghỉ. Vì là chuyến đầu tiên thâm nhập vào cánh rừng thiêng nước độc mênh mông, ngờm ngợp này nên chị vừa đi, vừa phạt cò (đánh dấu đường). Các liệt sĩ dặn chị: “Người dân tộc thiểu số ở đây họ phạt tròn. Đồng chí phải phạt nhọn kẻo nhầm là mất đường về”.
Tánh Linh nổi tiếng là chốn rừng thiêng nước độc, nhiều thú dữ, rắn rết. Các liệt sĩ cũng dặn dò kỹ cách phòng rắn. Nếu bị rắn độc cắn thì xử lý thế nào, hái cây gì để đắp... Chị nhớ như in trong đầu. Nhưng suốt mấy tháng lang thang trong rừng rậm vạch từng lùm cây, bụi cỏ (và hơn chục năm trời ở nhiều cánh rừng khác nữa), chị tịnh không gặp một con rắn nào. Chị bảo, có lẽ các liệt sĩ đã đi trước mở đường xua đuổi rắn cho chị.
Chị không nhớ là mình đã lội qua bao con suối, dốc đèo. Mỗi lần lội qua suối là quần áo ướt sũng. Chưa kịp khô, lại lội, lại ướt. Đi bộ đến bợt bạt chân thì hiện lên một con dốc dựng đứng. Chưa kịp phạt cò đánh dấu đường đã nghe phía đỉnh dốc tiếng réo gọi: “Lên đây đồng chí ơi. Trên này nhiều gió mát lắm. Anh em chúng tôi đã đứng đợi đồng chí lâu quá rồi”. Ngửa cổ nhìn, thấy thấp thoáng bóng mấy chiếc áo xanh bộ đội. Bàn tay nào đang vẫy gọi thiết tha.
Đêm đầu tiên ở rừng, chị đốt lửa ngồi hát suốt đêm. Toàn những bài hát sục sôi, vui tươi thời chống Mỹ. Gà, thỏ từ đâu kéo về từng đàn, xúm xít dưới chân chị. Chị bốc gạo cho chúng ăn cứ y như đàn gà nhà ngày trước chị vẫn chăm mỗi chiều khi đi làm đồng về. Rồi chị thiếp đi lúc nào không biết. Sáng ra, tỉnh dậy, mở mắt nhìn, chị kinh hoàng: hai con trăn hoa to như bắp chân người lớn quấn hai đầu võng. Bốn con mắt đen như bốn hạt đậu đang chằm chằm nhìn chị. Chị ngã bật khỏi võng, toan ù té chạy thì bỗng sững người như Từ Hải chết đứng: cách võng chị nằm chừng ba mét, những vết chân hổ to như vết chân con bê, sâu chừng 5cm. Cỏ rừng bị giẫm đạp nát một vùng. Chị ngã khuỵu xuống, chắp tay lạy: “Con lạy Bồ Tát đừng hù dọa con. Con hãi lắm”.
Buổi sáng hôm ấy, chị lại một lần nữa bạt vía kinh hồn trước sự hù dọa của chốn rừng thiêng. Đang mướt mả mồ hôi chặt bụi mây rừng và đám cỏ gianh cao lút đầu người để đào hầm hài cốt tập thể, chị bỗng nghe thấy tiếng lá cây kêu “rào, rào”. Căng mắt nhìn về phía phát ra tiếng động, chị phát hiện thấy xa xa có hai cái tai voi màu xám gan gà đang phe phẩy, phe phẩy. Con voi rừng đang mải miết bẻ ngọn, bẻ lá cây ăn. Rất may cho chị là chị lại đứng ở cuối hướng gió nên voi chưa ngửi thấy hơi người. Kinh nghiệm đi rừng nhắc nhở chị rằng: gặp voi dữ, tiến lên hay thụt lùi đều nguy hiểm như nhau. Tốt nhất là đứng im và leo lên một cái cây gần đó. Nhanh như cắt, chị leo lên trên một tán cây thấp trong khu rừng khộp, nín thở. Ông bồ tượng đi qua, vẫn đủng đỉnh bẻ lá lùa vào miệng. Sợ quá, mồ hôi túa ra ướt đầm áo, chị tụt xuống. Miệng lầm rầm cảm ơn Trời Phật vì ông tượng mà nhìn thấy, ông chỉ cho một vòi là thịt nát, xương tan.
Họa vô đơn chí, vừa nghĩ đến đấy thì chị lại tiếp tục bị khựng lại bởi một ông tượng màu xám bạc đi ngược chiều. Ông này không ve vẩy tai, nhai cây lá, ông rống liên hồi với những âm thanh nghe nhức tai, rợn óc. Bởi ông đã ngửi thấy hơi người. Ngay lập tức, ông lao về phía chị. Chị Năm Nghĩa nhìn quanh, không có bờ bụi, cũng chẳng có thân cây nào mà trèo. Bỏ chạy ư? Đừng hòng thoát thân. Mắt chị bỗng găm vào một thân cây gỗ mục, dọc thân có một lỗ to tướng. Chị lao đến, rúc vào, thấy vướng. Thì ra lưng chị vẫn đeo chiếc ba lô. Chị cuống cuồng trút ba lô khỏi vai, vứt ra xa rồi rúc vào hốc cây bằng lăng định mệnh ấy. Con voi khổng lồ dữ tợn đã nhìn thấy tất cả. Nó vươn vòi ôm khúc gỗ nâng lên trời rồi nện xuống. Gỗ bằng lăng không vỡ. Nó bèn thò vòi vào cái lỗ mà chị Năm Nghĩa nằm co quắp như con sâu. Nó sờ, nó hít. Chị Năm Nghĩa nằm im thin thít, nín thở. Có thể ông tượng nghĩ cái sinh linh nhỏ bé tội tình ấy đã chết nên sờ hít chán, nó lại quay ra ăn lá rừng. Ăn một lúc, ông lại thò vòi vào gốc cây bằng lăng, sờ thử lên ngực chị. Chị Năm Nghĩa lại nín thở. Mãi rồi, chắc ông tượng nghĩ là chị đã chết nên lấy vòi gom lá khô, bẻ cây chuối rừng đắp lên khúc bằng lăng rồi bỏ đi. Ông tượng đi lâu lắm rồi chị Năm mới dám bò ra khỏi khúc gỗ. Chị lại cúi rạp xuống đất còn vương vãi phân voi mà lạy, mà xin: “Con lạy bác voi, cô voi, chú voi. Đừng lại gần con, con sợ lắm”.
Bát cháo hoa màu nhiệm, gánh 60 hài cốt ra khỏi rừng...
Chị Năm Nghĩa đã phong cho chiếc xẻng này là Thần Cuốc

Rừng Tánh Linh có quá nhiều hài cốt liệt sĩ. Có những hài cốt vẫn còn mắc trên võng, treo trên thân cây. Đó là những người ngã xuống do sốt rét hay bị thương. Bao nhiêu năm, dây rừng ôm trùm kín. Lấy dao cắt hết dây, võng, xương cốt vẫn còn nguyên. Lại có nhiều hài cốt chôn tạm bợ dưới đất nông. Bao nhiêu năm mưa rừng xói lở. Nhiều chỗ nylon nổi hết lên. Chị Năm Nghĩa chỉ việc vén lá rừng là nhặt xương. Lại có những hố chôn tập thể lên đến mấy trăm người. Ngồi nhặt cả tháng mà vẫn chưa hết (xin kể ở phần sau). Ngày, chị cố gắng thu nhặt thật nhiều xương. Tối, chị nhóm lửa, múc nước suối, hái lá rừng, nấu nồi nước thơm rồi nhẹ nhàng lau rửa từng lóng xương, từng chiếc răng, hộp sọ, xếp ngay ngắn vào từng vuông vải đỏ, bó lại. Chị vừa làm vừa khóc. Chị khóc cho sự hy sinh quá lớn của các anh. Chị biết, các anh hầu hết còn trẻ. Có người vừa cưới vợ hôm trước, hôm sau đã lên đường ra trận, rồi vĩnh viễn không về, chưa kịp có với nhau một mụn con. Có người còn chưa một lần biết yêu, được yêu. Bao nhiêu năm vùi xác thân lạnh lẽo nơi đây, không một ai viếng thăm, không một nén hương tàn. Chắc các anh cô độc lắm... Chị cũng khóc cho thân phận mình. Mẹ già còn đó, nương tựa vào ai. Con còn trẻ dại, tương lai mịt mù. Từ ngày chị đi, mẹ con chưa một lần hội ngộ. Mái nhà gianh chắc cũng tiêu điều, hoang lạnh lắm. Liệu chúng có oán chị không? Hận chị không? Mà đường đi của chị còn thăm thẳm, đâu biết ngày về?
Chị ở rừng chừng 3 tháng thì mỳ hết, gạo hết mà hài cốt vẫn còn quá nhiều. Chị vừa khóc vừa bảo: “Các anh ơi! Các anh ở lại, em về tải gạo rồi em lại vào”. Nhưng các liệt sĩ cứ níu lại, sợ chị về rồi không bao giờ quay trở lại nữa. Thế là chị đi đào củ mài. Xuống suối bắt con cua, con ốc. Nhưng mãi rồi cũng hết. Buổi trưa, đói hoa mắt, chị bảo: “Các anh ơi! Lần này thì hết thật rồi. Làm thế nào bây giờ?”. Các liệt sĩ bảo: “Vậy thì mình ăn cháo hoa đi”. Chị thắc mắc: “Gạo không
Tỉnh dậy, mở mắt nhìn, chị kinh hoàng: hai con trăn hoa to như bắp chân người lớn quấn hai đầu võng. Bốn con mắt đen như bốn hạt đậu đang chằm chằm nhìn chị. Chị ngã bật khỏi võng, toan ù té chạy thì bỗng sững người như Từ Hải chết đứng: cách võng chị nằm chừng ba mét, những vết chân hổ to như vết chân con bê, sâu chừng 5cm. Cỏ rừng bị giẫm đạp nát một vùng...
còn một hạt thì nấu cháo làm sao?”. Các liệt sĩ cười: “Lấy nước suối, nấu lên uống. Cháo hoa đấy”. Chị làm đúng như thế. Nấu sôi nước suối, rót ra bát ăn cơm. “Thôi. Hôm nay anh em mình ăn cháo hoa thật rồi. Các bác ăn trước đi, rồi em ăn. Cháo nóng đấy nhé. Các anh nhớ húp vòng quanh”. Buổi trưa rừng hoang yên tĩnh. Chị nghe rõ tiếng người húp sì sụp. Đến lượt chị bê bát nước lên thì màu nhiệm vô cùng. Chị ngửi thấy đúng thơm mùi gạo chứ không phải nước sôi. Nhờ những bát cháo hoa kỳ diệu ấy mà chị ở rừng thêm được 15 ngày nữa.
Vì hài cốt nhiều, lại ở nhiều cánh rừng khác nhau nên chị phải chia làm nhiều trạm chứa hài cốt. Sau cùng, sẽ tập kết ở một trạm trung tâm. Việc vận chuyển hài cốt khó khăn vô cùng. Thứ nhất là do đường rừng núi hiểm trở. Thứ nhì, người dân tộc thiểu số cấm không cho mang hài cốt qua bản. “Mày không được đưa ma qua bản tao. Ma nó ở lại quấy rầy”. Chị phải mày mò đi tìm đường ngang lối tắt. Ba lô sau lưng là 12 bộ hài cốt. Làm cái bọc vải đèo toòng teng trước cổ 8 bộ. Còn đâu bó hai bọc to, mỗi bọc 20 bộ rồi chặt khúc cây rừng, chị gánh. Thế là, 60 bộ hài cốt cứ kẽo kẹt theo mỗi bước chân nhún nhảy trên thân hình gầy guộc của chị vượt qua bao đèo dốc. Gặp con suối lớn, nước ngập tới ngực, tới cổ, chị phải nâng từng bọc lên đầu để lội qua, tuyệt không để các anh bị ướt. Có lần, một thân một mình ở trong rừng sâu lâu quá, đến lúc ra ngoài bìa rừng, nhìn thấy người, chị cứ ngơ ngơ ngác ngác như người... rừng. Cũng lắm khi chị đứng dụi mắt đến đỏ ngầu để tự ý thức xem mình là người trần hay là người từ cõi... âm.
(Còn tiếp)

0 nhận xét :

Ghi chú cho mẫu nhận xét:
- [img] ..link..[/img].
- [youtube] ...link...[/youtube].
- [nct]...link...[/nct].

:) :( :)) :(( =))

Recent Posts